NGUỒN
GỐC DÒNG HỌ VÀ VIỆC LẬP GIA PHẢ
Về nguồn gốc và thời gian dòng họ di cư vào Thanh Hóa lập
nghiệp.
Khoảng
thế kỷ 17 năm Chính Hoà thứ Nhất 1680 (xem
phụ lục 1), nước nhà có binh biến nhân dân ta muôn vàn cực khổ, phải bỏ
làng mạc quê hương di cư vào phía Nam.
Trong số những người từ tỉnh Hải Dương di cư
vào Thanh Hóa lập nghiệp, có cụ tổ họ Cao Đăng là Cao Đăng Bảng.
Sở dĩ ta biết được điều đó nhờ vào việc thuở xưa
các ông tổ ở các họ đầu tiên đến sinh cơ lập ấp, lập nên làng, phải có chấp
bằng địa bạ khoán ước giấy tờ minh bạch, ghi rõ quê quán cũ của mình. Đó là một
trong những căn cứ để bầu ra người lãnh đạo làng. Người lãnh đạo làng có nhiệm
vụ trông coi trật tự xã hội, quan hệ với trong ngoài, trên dưới, sắp đặt họ nào
đến trước, họ nào đến sau.
Thời đó ghi trong địa bạ giấy tờ, họ Cao đến
đầu tiên rồi đến họ Bùi, dần dần đến các họ Phạm Văn, họ Nguyễn Đình ... Các cụ đều khai lý lịch, ghi quê quán, tên
cha mẹ, quê cũ của mình.
Trong Địa bạ, Hương ước của làng bằng chữ Hán, hiện nay ông Nguyễn Đình
Vạn (Đại tá về hưu) đang cất giữ có
tên cụ Cao Đăng Bảng (Chức Quan viên), Cao Đăng Đệ (chức Quản thủ), Cao Đăng
Đài, là những người đầu tiên ký Hương ước ấy. Đó là năm Chính Hoà 16 (1696). Cùng ký Hương ước ấy họ ta còn có ông
Cao Đăng Khoa, Cao Đăng Kiều (quan viên tử).
Sổ sách ghi họ ta có tên cụ Cao Đăng Bảng, Cao Đăng Đệ và Cao
Đăng Đài. Ba cụ trên đây là những người dẫn đầu họ Cao từ Hải Dương đến làng
Mân Trung lập nghiệp. Cụ Cao Đăng Bảng là người có danh tiếng trong làng đã làm
thủ khoán làng văn, ông lại có sắc phong của nhà nước: “Chánh đội trưởng Phó
thiên hộ”, cụ là tiên chỉ của làng. Như vậy, ông tổ của họ Cao từ Hải Dương vào
khoảng Thế kỷ 17 năm 1680
Về việc thiết lập gia phả và thành lập họ, lập các Chi trong họ
Gia phả của họ được lập bằng chữ Hán. Có
thời gian bị thất lạc, sau tìm thấy nhưng mất đoạn đầu. Thời gian sau họ cao
mất gia phả, lý do là: từ đường ông Cao Đăng Bình (chi 1, cành 1, đời thứ 5),
bị đau bụng kinh niên, lại vì không có con trai, ông giận mình mà đốt mất gia
phả. Từ đó họ sưu tầm không thấy được tông tích của ông bà Thủy tổ, mà chỉ biết
được có 3 người con trai của ông Tổ kế truyền lại đến nay.
Kế tiếp Từ đường là ông Cao Đăng Thuận
(chi 1, cành 1, đời thứ 5). Ông Thuận là em ông Bình. Thời gian ngắn ông Thuận
chết trẻ, giao quyền lại cho con trai cả là ông Cao Đăng Bắc (chi 1, cành 1,
đời thứ 6). Khi đó gia đình ông Bắc tương đối đầy đủ, ông mời toàn họ tập trung
tại nhà ông họp bàn về việc làm nhà thờ và sưu tầm tông tích tổ tiên để lập bản
gia phả mới. Mọi người rất đồng ý và cùng chung một ý nghĩ: Sông còn có nguồn,
có suối. Cây xanh cũng có gốc có rễ. Con người sống cũng phải có tổ tông, con
thì có cha, có mẹ. Nếu mà không có gia phả, chẳng biết ai là anh em, chú bác.
Không biết ai là nội ngoại, thân sơ nhà mình, ai cũng tán đồng và định ngày
làm.
Họ mời các cụ nhiều tuổi nhất trong họ
và các cụ nhiều tuổi có kinh nghiệm trong làng về dự bàn làm. Bậc lão thành hay
chữ có cụ Phạm Nguyên Thiện, cụ Phạm Xuân Mai. Đồ nho có ông Phạm Văn Hảng, ông
Nguyễn Tấn Thân, ông Phạm Xuân Phú. Các cụ mở ống khoán của làng ra xem, thì
thấy chính xác tên cụ Cao Đăng Bảng đã làm thủ khoán làng văn, ông lại có có
sắc phong của nhà nước “Chánh đội trưởng Phó thiên hộ”, nên họ tôn cụ Bảng là khởi
tổ thứ Nhất của họ, tôn cụ Đệ kế tổ rồi đến cụ Đài
Họ Cao đã có chi Nhất là cụ Bảng, cụ Đệ,
cụ Đài là con thứ Ba, khi phân chi thì cụ về chi Hai.
Như vậy con cháu đến nay đã biết được tổ phụ, tổ quán của dòng họ. Vị tổ phụ đầu tiên là Cụ Cao Đăng Bảng, tổ quán của chúng ta là làng Mân Trung xã Đông Lĩnh huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá. Nay là làng Mân Trung, phường Đông Lĩnh TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Quyển gia phả do ông Bắc làm mới cũng bằng chữ Hán. Được lưu tại gia đình ông Cao Đăng Đường (đời 7, chi 2) cho đến những năm 2000, sau bị mối mọt, đã hư hỏng, nhưng đã được hai ông Cao Đăng Hán và Cao Đăng Tiệp dịch ra chữ Quốc ngữ, ông Cao Đăng Vỹ ghi lại vào năm 1962.
Trải qua bao thời gian các bậc tiền bối đã cần cù lao động, sống bằng
nghề nông là chủ yếu, với mong muốn xây dựng cho con cháu đời sau một tương lai
tươi sáng, ngày càng phát triển đi lên.
Đất nước trải qua nhiều binh biến, các bậc tiền bối cũng như con cháu
chúng ta cũng đã xả thân vì đại nghĩa. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, nhiều người tham gia quân đội, công an được phong hàm Trung, Cao cấp.
Thời kỳ chống Pháp họ ta đã có 08 người đi bộ đội, 08 người đi dân công tiếp
viện, có 02 người tham gia nghĩa vụ Quốc tế bên Lào, 02 người đi Thanh niên
xung phong.
Thời chống Mỹ có trên 60 người tham gia quân đội NDVN. Có 11 người đã anh
dũng hy sinh trở thành liệt sỹ, 07 người là thương binh, bệnh binh. 02 mẹ được
nhà nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam Anh hùng”: bà Phạm Thị Ven và Trần
Thị Toái. 01 người (ông Cao Đăng Thao) hai lần được phong danh hiệu “Dũng sỹ
diệt Mỹ”. Nhiều người trong họ được thưởng Huân, Huy chương cao quý do Nhà nước
phong tặng. Trong xã hội, họ ta đã có nhiều người tham gia cán bộ lãnh đạo từ
cấp thôn, xã phường, huyện quận, tỉnh, đến cấp Trung ương, với các chức vụ: Hàm
Thứ trưởng, Vụ trưởng, Giám đốc, Phó Giám đốc các ngành, các tổ chức xã hội cấp
tỉnh. Chủ tịch Công đoàn Quận, Trưởng Công an huyện, Chủ tịch, phó Chủ tịch
UBND xã, Chủ tịch Đội nông dân xã…(xem
phụ lục 2).
Hoà bình lập lại nhiều con cháu đã tích cực học tập đạt học vị cao, tính
đến nay - 2020, đã có trên 101 người có trình độ từ Cao Đẳng, Đại học, Thạc sỹ
đến Tiến sỹ. Trong đó có 12 người học hàm Tiến sỹ, Thạc sỹ (phụ lục 3).
Một số tu nghiệp học tập ở nước ngoài, nhiều người thoát luỹ tre làng làm
công nhân các nhà máy xí nghiệp trên mọi miền đất nước, nắm các cương vị lãnh
đạo trong xã hội.
Họ đã tổ chức được Hội khuyến học, khen thưởng kịp thời các cháu đỗ Đại
học, giáo dục con cháu hướng về cội nguồn. Chính vì lẽ đó họ ta đã được UBND xã
Đông Lĩnh hai lần cấp “Giấy chứng nhận
dòng họ hiếu học tiêu biểu”. Đó là niềm tự hào của họ ta, đồng thời cũng là
tấm gương để con cháu tiếp tục truyền thống gia đình và dòng họ. Phấn đấu xây
dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc của gia đình mình, góp phần xây dựng dòng họ,
cộng đồng xã hội ngày càng phát triển.
Cùng với thời gian, chúng ta đã dần thiết lập hoàn chỉnh gia phả dòng họ.
Năm 2011, hoàn chỉnh gia phả đến đời thứ Mười và đã lập được phả đồ dòng họ
treo tại nhà thờ.
Năm 2018, Gia phả của họ đã được đưa lên trang Internet, con cháu mọi miền
có thể truy cập rộng rãi. Mọi người có thể vào trang Web: “hocaomantrung.hotoc.vn”
là tìm được mọi thông tin Dòng họ.
Năm 2019, khi tổ chức khánh thành nhà thờ được nâng cấp lên Hai tầng và
làm Lễ kỷ niệm 340 năm dòng họ Cao Đăng, chúng ta đã quay phóng sự Video kỷ
niệm và đưa lên YouTuber, mọi người vào YouTuber, gõ: “le ky niem 340 nam dong
họ cao dang” để xem và cảm nhận.
Năm 2020, Gia phả tiếp tục được bổ sung các sự kiện, bổ sung thay đổi các
đời và viết tiếp đời thứ 11.
Gia phả tu chỉnh lần thứ 6 này được
viết rất chi tiết, đầy đủ, những lần bổ sung sau không cần viết lại từ đầu mà chỉ
làm bản phụ lục phần bổ sung, đính kèm gia phả.